Bế tắc. Không Lối Thoát. Có những ngày chúng ta gặp phải hoàn cảnh lúng túng, nhưng không đến nỗi quá quắt. Bấy giờ chúng ta hy vọng có thể tự xoay sở, thoát ra. Có những lúc, thì lại là bế tắc. Không có đường ra.
Người phụ nữ trong câu chuyện trên đây đang trong hoàn cảnh bế tắc. Chị ta đã thực sự phạm tội. Chị không có cách nào để tự bào chữa, cũng không có được tình tiết giảm khinh để trình bày bênh vực chính mình. Lỗi của chị thật sự là nặng, và phải đưa đến cái chết, theo luật lệ rất rõ ràng của Lêvi: “ Người đàn ông phạm tội ngoại tình với vợ của đồng loại sẽ phải chết, hắn ta và người đồng phạm” ( 20,10 ).
Điều đáng để ý ở đây là, chính người phụ nữ lại được đưa ra xét xừ, không có người đồng phạm của chị ta. Chị ta thực sự đang ở trong chỗ bế tắc. Các luật sĩ và biệt phái hoàn toàn ý thức được điều đó. Đối với họ, đây là một cơ hội bằng vàng làm Chúa Giêsu lúng túng. Còn hơn nữa, họ giăng cho ngài một cái bẫy. “Trong Luật, Môisen đã ra lệnh ném đá những người phụ nữ như thế. Còn Thầy, Thầy tính sao ?-“. Đó là cái bẫy. Nếu ngài nói là đừng áp dụng Luật Lệ, tức Luật của Môisen, người ta sẽ tố cáo là ngài coi thường Lề luật. Nếu ngài khẳng định là phải áp dụng Lề luật, thì người phụ nữ sẽ chết. Và ngài, ngài không còn là Đấng đã đến để tìm con chiên lạc, để “ cứu vớt những gì đã mất” ( Lc 19,10 ).
Chúa Giêsu phản ứng thế nào ?- Ngài vạch những đường nét trên đất. Ngài suy nghĩ và từ chối không giải quyết trường hợp này bằng cách chạy đến việc tuân giữ khắt khe Lề Luật. Ngài không chối bỏ Lề Luật, không phản đối nó. Ngài tìm cách đặt nó vào một vị trí khác, nhìn Lề Luật với một quan điểm khác. Chính lúc bấy giờ xuất hiện giải pháp. Giải pháp đó sẽ là giải phóng cho người phụ nữ, nhưng lại hủy diệt đối với những người tố cáo.
Trước sự hối thúc của những người tố cáo, Chúa Giêsu lên tiếng: “ Ai trong các người không có tội, thì hãy ném đá chị ta trước đi”. Chúng ta có thể hình dung câu nói này được phát ra một cách chậm rãi, với rất nhiều sự dịu dàng, mà không nhìn về những người đến giăng bẫy cho ngài.
Chính lúc bấy giờ, mọi sự bị lật đổ. Phải đi vào bên trong chính mình. Phải thăm dò con tim của mình. Người ta nghĩ đến mối liên hệ của cái rác trong mắt anh em và cái đà trong mắt mình: “ Tại sao ngươi nhìn thấy cái rác trong mắt anh em ngươi, trong khi lại không để ý cái đà trong mắt ngươi ?-“ ( Mt 7,3 ).
Những người khác không còn như trước nữa, khi họ được nhìn xem và phán xét không phải theo kiểu cách của Lề Luật, nhưng theo chiều kích của tình yêu và lòng thương xót.
Có rất nhiều điều phải xác tín và ghi nhớ.
Thứ nhất là sự bảo đảm chắc chắn rằng, Đức Kitô không bao giờ kết án. Đồng thời cũng bảo đảm là, để tự đánh giá chính chúng ta, thì không dựa vào Lề Luật. Không phải những Lề Luật cũ, càng không phải những luật lệ do các chính phủ và tòa án ban bố.
Sự phán quyết của ngài hướng dẫn chúng ta: không chối bỏ giá trị của Lề Luật được ban bố dưới chế độ của Giao ước cũ. Nó cũng không chối bỏ giá trị và sự cần thiết của luật lệ loài người. Nó được đặt ở bên kia. Chúa Giêsu nhìn sự vật một cách khác. Cái luật cuối cùng đối với ngài, cái điểm qui chiếu cuối cùng, chính là tình yêu tha thứ, chính là tình yêu biết tìm thấy những con đường mới để tạo dựng nên những con người mới.
Thứ hai, người phụ nữ đã phạm tội rất nặng không trở về nhà mình như một con người cũ. Chị ta đã được biến đổi. Có một ai đó đã đến trao ban cho chị một cơ may bất ngờ, quá sức mong đợi, một cơ may được sống một cách khác, cơ may được sống lại.
Khi trao ban sự tha thứ, Chúa Giêsu luôn luôn kêu gọi: hãy sống một cuộc sống khác: “ Chị hãy đi và đừng phạm tội nữa”. Chị hãy đi và sống như chị phải sống.
Những sự tha thứ mà chúng ta lãnh nhận phải như thế. Rất thường khi chúng ta xem chúng như là “những sự tẩy rửa bên ngoài, để lại bên trong chúng ta như cũ”. Tuy nhiên, sự tha thứ của Thiên Chúa không chỉ có được cái sức mạnh tẩy rửa, tinh luyện, nhưng còn biến đổi chúng ta nên mới, theo hình ảnh của Thiên Chúa.
Rõ ràng, một khi đã được tha thứ, người phụ nữ đã có thể sống một cách khác. Với điều kiện là chị ta muốn điều đó. Với điều kiện là chị ta cố gắng và trả giá.
Rõ ràng, một khi trở về nhà mình, những người tố cáo đã có thể sống một cách khác, khi ý thức về sự mỏng dòn của mình, ý thức về cái đà trong mắt mình.
Với chúng ta cũng vậy, rõ ràng hai ơn huệ này cũng được trao ban cho chúng ta: ơn nhìn nhận tội lỗi của riêng mình và ơn xác tín rằng, tội lỗi đó có thể được tha thứ. Bởi vì Thiên Chúa là Cha luôn yêu thương, tha thứ và ban Ơn Cứu Độ cho chúng ta.
Vì thế, hãy tận dụng những ơn lành của Chúa, cách đặc biệt là trong Mùa Chay thánh này.