Cuộc hội kiến giữa Chúa Giêsu và người đàn bà xứ Samaria bên bờ giếng Giacob thật là kỳ lạ và bất ngờ.
Bởi vì ít nhất có bốn bức tường ngăn cách khiến hai nhân vật nầy bình thường không thể tiếp xúc, gặp gỡ. Thứ nhất là về sắc tộc: một đàng là Do Thái, một đàng thuộc xứ Samaria, thường bị coi là tạp chủng, ngoại lai. Thứ hai là sự phân biệt nam nữ: vào thời đó, sự gặp gỡ giữa một người đàn ông và một người đàn bà xa lạ là điều cấm kỵ, huống hồ ở đây là giữa một người đàn ông Do Thái và một người đàn bà xứ Samaria thù địch. Thứ ba là về tôn giáo: tuy cả hai đều tôn thờ Thiên Chúa, nhưng dân Samaria vẫn bị khinh miệt như là dân ngoại, chung chạ với tà thần; người Do Thái không được liên hệ, nếu không muốn bị ô uế. Thứ bốn là sự khác biệt không thể hoà hợp được giữa một Đấng Thánh tối cao và một người đàn bà tội lỗi, đã lần lượt sống bất hợp pháp với sáu người đàn ông.
Tất cả các yếu tố đó đủ để làm cho cuộc gặp gỡ nầy không thể thực hiện được. Thế nhưng, không có gì là không có thể đối với Thiên Chúa. Trong trường hợp nầy, Chúa Giêsu đã chủ động gặp gỡ, biến đổi tâm hồn của người phụ nữ.
Bên bờ giếng Giacob, Chúa Giêsu là một người khách lạ. Cơ hội để bắt đầu cuộc hội ngộ phát xuất từ việc Chúa Giêsu mệt mỏi và khát nước. Chính ngài đã đi bước trước, mở đầu câu chuyện. Đó là điều bất ngờ cho người phụ nữ và cho cả các môn đệ của ngài. Tư giếng nước và nước uống, Chúa Giêsu hướng sự quan tâm của người phụ nữ sang một thế giới khác, thế giới của tâm hồn.
Tiến trình khởi đầu từ nước uống, rồi đến chuyện chồng con; sau đó là về Đền thờ. Qua cuộc trao đổi, từ từ được giải thoát khỏi những thiên kiến về sắc tộc, về chính trị và về tôn giáo, chị ta chuyển cái nhìn về người khách lạ, để từng bước một khám phá ra nơi Chúa Giêsu một người đàn ông, một tiên tri và là Đấng Thiên Sai cứu độ.
Với một phương pháp sư phạm khéo léo, Chúa Giêsu đã dần dần đưa chị từ chỗ nhìn ngài là một người đàn ông đang khát nước và xin nước uống, đến chỗ đặt câu hỏi: « Phải chăng ngài trọng hơn tổ phụ Giacob chúng tôi »; rồi sau đó, xác nhận: « Tôi thấy rõ ngài là một một tiên tri », nghĩa là người nói, loan báo và lập lại Lời Thiên Chúa. Và trước sự thành tâm mong đợi Đấng Cứu Thế của chị, Chúa Giêsu đã cho biết, ngài chính là Đấng Cứu Thế đang được mong đợi.
Chị đã chạy đi loan báo Tin Mừng cho cả thành; họ đã đến gặp ngài, và xin ngài ở lại với họ.
Cuối cùng Chúa Giêsu không ăn gì, cũng không uống gì, bởi vì ngài đã có lương thực quý báu riêng của ngài, là thực hiện thánh ý Thiên Chúa, là loan báo ơn cứu độ cho mọi người, bắt đầu từ dân Samaria qua trung gian của một phụ nữ đã nhận ra ngài là Đấng Cứu Thế và tin tưởng nơi ngài.
*** Trải qua thời gian và không gian, cuộc đời chúng ta cũng rất giống với người phụ nữ xứ Samaria nầy. Cũng những bước đi, cũng những cử chỉ của mọi ngày, chị ta đến giếng để lấy nước. Cũng có những giây phút chán nản và ưu tư, lo lắng. Cuộc sống gia đình của chị là cả một chuỗi những thất bại. Chị đang chung sống với người đàn ông thứ sáu. Cuộc sống vất vả và đời sống tình cảm đầy thất vọng. Chắc chắn nhiều lần chị đặt câu hỏi: Cuộc sống có ý nghĩa gì không ?- Ai sẽ là người tiếp cứu mình đây ?- Và chị đã gặp được Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ, đang chờ đợi chị bên bờ giếng để giải thoát chị.
Cũng vậy, đối với chúng ta. Ngày ngày chúng ta đi đến công sở, trường học, nơi làm việc lao động, vất vả. Ở nhà thì những bổn phận nặng nề của gia đình luôn luôn chờ đợi chúng ta. Cuộc sống chán ngán, buồn nản, mà các chủ thuyết, những lời hứa hẹn chính trị, các giải pháp nhân loại không giải quyết được gì. Những câu hỏi của người phụ nữ nầy cũng thường ám ảnh tâm trí chúng ta: Đâu là ý nghĩa của cuộc sống ?- Ai sẽ cứu độ chúng ta ?-
Chúng ta có mặt ở đây chiều hôm nay, bởi vì chúng ta biết rõ là Đức Kitô đang chờ đợi chúng ta trong bí tích Thánh Thể. Cũng như ở Sichar với người phụ nữ Samaria, ngài ngỏ lời xin chúng ta: « Xin cho Thầy uống nước ». Ngài xin chúng ta một chút quan tâm để ngài có thể tâm sự trong sự kín đáo của tâm hồn. Ngài xin chúng ta một ít thời giờ để có thể hiểu và sống Lời ngài. Ngài xin chúng ta con tim và đôi cánh tay rộng mở để phục vụ anh em bất hạnh, bởi vì ngài hiện diện nơi những ai đang đói khát, bệnh tật, tù đày, đau khổ...
Chúng ta đừng bỏ lỡ cơ hội gặp gỡ ngài nơi những những anh em chung quanh, trong Giáo Hội, trong mùa chay. Gặp gỡ ngài, để được ngài trao ban Nước Hằng Sống, là ơn cứu độ muôn đời.