
Câu hỏi mà những người phái Saducêô đặt ra với Chúa Giêsu khá kỳ cục. Nó được giới thiệu như là một câu hỏi hóc búa. Nó làm cho người ta hiểu rằng, sau khi sống lại, con người vẫn tiếp tục sinh con đẻ cái. Chúa Giêsu không có giờ để trả lời, trong vương quốc, những người sống lại không còn truyền sinh nữa. Giữa họ có những mối liên hệ mới, thuộc một dạng khác. Những mối liên hệ không theo xác thịt. Họ giống như các thiên thần. Ngài kết thúc lời giải thích bằng cách trưng ra một lời của Môisen. Cái lý luận thật quan trọng, bởi vì những người phái Saducêô chủ trương rằng, ý tưởng về sự sống lại không có nền tảng trong Kinh Thánh.
Ngày nay còn có nhiều người không tin vào sự sống lại. Hiện tượng này không có gì mới lạ. Tuy nhiên, điều mới lạ là, xuất hiện nơi chúng ta một loại tín ngưỡng mới: tin tưởng vào sự luân hồi.
Một cuộc điều tra mới đây ở nước Pháp cho chúng ta biết rằng, ở Tây phương có khoảng từ 20 đến 25 phần trăm người tin vào sự luân hồi. Cuộc điều tra này nói rõ, nhiều người kitô hữu nghĩ rằng, có thể tin cùng một lúc vào sự sống lại và sự luân hồi. Vì thế, chúng ta hãy nói một vài lời về sự luân hồi, và hãy xem học thuyết này có hòa hợp được với niềm tin vào sự sống lại hay không.
Chúng ta biết rằng, Thuyết Luân Hồi đến từ phương Đông. Từ Phật giáo. Nó chủ trương rằng, linh hồn có thể tự tái nhập vào trong những cơ thể khác ( thú vật, con người, thảo mộc.. ). Ở Tây phương, sự luân hồi không phải là một thực tại đáng mơ ước. Đúng hơn nó là một tai họa, một sự trừng phạt mà một ai đó đã sống không ra gì phải chịu. Lý tưởng mà người phật tử hướng về là niết bàn, là nơi sản sinh ra một tình trạng hạnh phúc hoàn toàn. Để đi đến niết bàn, mỗi người phải từ từ tách rời khỏi những thực tại vật chất, và chế ngự hoàn toàn những đam mê. Nếu người ta đã không thực hiện thành công điều đó trong cuộc đời thứ nhất, thì người ta bị kết án phải cố gắng trong cuộc đời thứ hai.
Ở Tây phương, sự luân hồi cách chung được trình bày như là một thực tại rất tích cực. Chẳng hạn, người ta sẽ nói rằng, nó sẽ cho phép một người sống trong cuộc đời thứ hai cái điều mà người đó đã không thể sống trong đời thứ nhất. Hay còn là, nó dùng để thiết lập sự công bình hơn trong thế giới. Những người trước kia nghèo hèn, không may mắn và bất hạnh trong cuộc sống thứ nhất có thể trở nên giàu có, may mắn và hạnh phúc trong cuộc sống thứ hai. Và ngược lại.
Giáo lý đức tin dạy cho chúng ta biết: tính cách không tương hợp giữa sự phục sinh và sự luân hồi. Một người kitô hữu có thể tin vào luân hồi hay không ?- Một người kitô hữu có thể cùng một lúc tin vào luân hồi và sự phục sinh hay không ?- Câu trả lời chắc chắn là phủ định, vì những lý do sau đây:
Trước hết, sự luân hồi không có nền tảng Kinh Thánh. Sự phục sinh thì có. Rất nhiều lần, vấn đề phục sinh được đề cập đến trong Tân Ước. Chúng ta biết rõ đoạn văn mà thánh Phaolô kêu lên rằng, “ nếu không có sự sống lại, thì tất cả niềm tin của chúng ta sụp đổ” ( 1 Co 15 ).
Thứ đến, sự quan trọng dành cho thân xác hoàn toàn khác biệt giữa bên này và bên kia. Trong học thuyết về sự luân hồi, thân xác ít quan trọng. Thân xác chỉ là một cái vỏ chứa đựng linh hồn. Còn kitô giáo dành một sự quan trọng đặc biệt cho thân xác. Kitô giáo xem thân xác như là một yếu tố xây dựng nên căn tính của con người nhân loại. Chúng ta là xác và hồn. Chính vì thế mà quan trọng biết bao con người sống lại “ với thân xác của mình”. như thánh tông đồ Phaolô đã nói: “ thân xác đã được biến đổi, đã được thiêng liêng hóa, đã được thấm nhập, và được Thánh Thần tái tạo lại; thế nhưng, chắc chắn đó là thân xác của chúng ta” ( 1 Co 15 ).
Thứ ba, việc tiến đến ơn cứu độ ( niết bàn ), đối với những người chủ trương luân hồi, là một công trình của con người nhân loại. Con người là người xây dựng niết bàn cho chính mình. Trong kitô giáo, sự quan trọng của nỗ lực bản thân đối với ơn cứu độ chắc chắn là không bị chối bỏ; thế nhưng, con người không bao giờ có thể tự cứu lấy chính mình. Cho dù có cố gắng khắc khổ và làm việc lành đến thế mấy đi nữa, không bao giờ con người xứng đáng đón nhận sự tha thứ những lỗi lầm. Sự tha thứ, giúp đi đến ơn cứu độ, là một ơn huệ “ nhưng không” của Thiên Chúa. Số nhiều của cuộc đời được sống trên trần gian không làm thay đổi gì cả.
Thứ tư, đối với những người tin vào luân hồi, trách nhiệm bản thân trong cuộc sống được tương đối hoá. Nếu xử sự xấu trong một cuộc đời, người ta luôn luôn có thể làm lại trong một cuộc đời khác. Đối với những người tin vào sự phục sinh, thì chỉ có một cuộc đời để sống. Nó có tính cách quyết định. Những lời chất vấn Phúc âm phải được đón nhận nghiêm túc. Ngay tại cuộc sống này, mỗi người phải đặt mình liên hệ với Đức Kitô để đón nhận hay chối bỏ ơn cứu độ của mình.
Như vậy không có sự tương hợp giữa hai học thuyết này. Vì thế, chúng ta hãy nghĩ đến điều đó, trong khi tuyên xưng đức tin của chúng ta “ vào sự tha thứ tội lỗi và xác sống lại đời sau.”